Điều trị hội chứng kháng phospholipid (APS) và thời gian sử dụng thuốc kháng đông

Điều trị kháng đông cho bệnh nhân APS có huyết khối

CHUYÊN MÔN

Bs Thanh Kiều

2/8/20252 min read

Tóm lại, thời gian dùng thuốc kháng đông ở bệnh nhân APS phụ thuộc vào mức độ nguy cơ và tiền sử huyết khối, trong đó Warfarin là lựa chọn chính ngoài thai kỳ, còn LMWH được ưu tiên trong thai kỳ.

Tài liệu tham khảo:

1. Arachchillage D.J, Platton S, Hickey K, et al. Guidelines on the investigation and management of antiphospholipid syndrome. Br J Haematol. 2024;205:855–880. DOI: 10.1111/bjh.19635.

1. Điều trị kháng đông cho bệnh nhân APS có huyết khối

  • Bệnh nhân APS có huyết khối tĩnh mạch không rõ nguyên nhân → Cần điều trị kháng đông vô thời hạn.

  • Bệnh nhân APS có kháng thể nguy cơ cao (triple-positive) và có huyết khối tĩnh mạch → Khuyến nghị điều trị kháng đông lâu dài, đặc biệt nếu có yếu tố nguy cơ tồn tại.

  • Thuốc kháng đông ưu tiên: Warfarin (VKA) với INR mục tiêu 2.0–3.0.

  • DOACs (thuốc kháng đông đường uống trực tiếp): Không khuyến nghị dùng cho bệnh nhân APS ba dương tính và chỉ nên cân nhắc ở bệnh nhân APS một hoặc hai dương tính.

2. Điều trị và thời gian sử dụng thuốc kháng đông trong thai kỳ

  • Phụ nữ mang thai có APS nhưng chưa có huyết khối trước đó → Dùng aspirin liều thấp (75–150 mg/ngày) từ khi thử thai dương tính đến lúc sinh. Cân nhắc dùng LMWH liều dự phòng nếu có nguy cơ huyết khối cao, có thể cân nhắc dùng đến lúc sinh và từ 10 ngày đến 6 tuần sau sinh​.

  • Phụ nữ có tiền sử huyết khối trước đó → Dùng LMWH liều điều trị trong suốt thai kỳ và ít nhất 6 tuần sau sinh.

  • Nếu bị huyết khối trong thai kỳ dù đã dùng LMWH dự phòng → Chuyển sang LMWH liều điều trị trong suốt thai kỳ và duy trì 6 tuần sau sinh với tổng thời gian điều trị ít nhất 3 tháng.

3. Điều trị APS thảm khốc (CAPS - Catastrophic APS)

  • CAPS là tình trạng nguy hiểm với tỷ lệ tử vong cao (~30%).

  • Điều trị gồm:

    • Kháng đông Heparin (UFH) liều điều trị.

    • Corticosteroid liều cao để giảm viêm.

    • Truyền immunoglobulin tĩnh mạch (IVIG) hoặc thay huyết tương (plasmapheresis).

    • Rituximab có thể được dùng trong trường hợp không đáp ứng.